Đặc điểm nhận dạng:
Chim trưởng thành khác với Quạ đen có vòng trắng ở cổ và ngực. Phía trên cổ vòng trắng này rộng tới lưng trên, nhìn ngang phần vai vòng trắng ôm lấy gốc cánh tạo thành hình chữ V. Toàn bộ phần lông còn lại của bộ lông mầu đen có ánh đỏ tím. Mắt, mỏ và giò đều đen.
Sinh học - Sinh thái:
Mùa sinh sản kéo dài từ tháng 3 - 7. Tổ hình cầu đặt trên các cành hay các ngọn cây cao tới 30m trở lên (thường là các cây gạo, đa...). Có thể gặp một đôi hay nhiều đôi cùng làm tổ trên cùng một cây. Tổ làm khá công phu bằng các que và cành cây khô nhỏ ken lại kỹ thuật. Có que đường kính tới 1,5cm, dài 45cm. Trong tổ được lót bằng lớp mỏng lá cây khô và lông chim, vịt, gà... Mỗi lứa đẻ 3-4 trứng, vỏ màu trắng hơi đục. thời gian ấp là khoảng 20 - 22 ngày.
Thức ăn là ngoé, nhái, chuột, giun đất, côn trùng. Thời gian nuôi con sắp rời tổ thiếu thức ăn, Quạ khoang bắt cả gà, vịt con mới nở khi chăn thả ở ngoài đồng ruộng và thấy tha cả bắp ngô non ở bãi nương về ăn. Thay lông vào tháng 8 - 10 hàng năm.
Quạ khoang sống định cư, làm tổ ở cả vùng ven biển, cửa sông, đồng bằng, trung du và miền núi có độ cao đến 1500m (Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn) gần các nơi trồng trọt, dân cư sinh sống. Chúng thường kiếm ăn ở các khu vực gần đất ngập nước, bãi lầy, bãi triều sau nước rút. Chúng cũng kiếm ăn cùng với Quạ đen, Sáo mỏ ngà, vv. Là kẻ thù của các loài chim nhỏ, gia cầm lúc mới nở ít ngày.